Ống nhòm đo độ mặn của Red Sea mang lại độ chính xác đặc biệt để đo độ mặn tuyệt đối của nước biển ở nhiệt độ 25°C / 77°F.
Hầu hết các khúc xạ kế được sử dụng trong thú chơi cá không được thiết kế đặc biệt cho bể cá rạn san hô và sử dụng thuật toán để đo nước muối (NaCl – chứ không phải nước biển) ở nhiệt độ 15°C / 59°F thay vì 25°C / 77°F . Do đó, có thể có độ lệch đo lên tới 1,5ppt, điều này có thể có tác động bất lợi đáng kể đến sự phát triển và màu sắc của san hô.
Các tính năng chính của Khúc xạ kế nước biển của Biển Đỏ bao gồm:
- Đọc trực tiếp độ mặn tuyệt đối của nước biển ở 25°C / 77°F (Không cần nước biển hoặc hệ số bù nhiệt độ)
- Được thiết kế đặc biệt cho hàm lượng ion của nước biển (NSW) để đo độ mặn chính xác hơn (khúc xạ kế tiêu chuẩn công nghiệp được hiệu chuẩn cho nước muối).
- Hiệu chuẩn cho nước biển (NSW) ở 25°C / 77°F, phạm vi nhiệt độ bình thường cho bể cá rạn san hô (hầu hết các khúc xạ kế tiêu chuẩn được hiệu chuẩn ở 15°C / 59°F).
- Dễ đọc hơn, màn hình có độ phân giải cao hơn, tập trung vào phạm vi phù hợp cho bể cá rạn san hô lên tới 40ppt
- Bao gồm bù nhiệt độ tự động tích hợp (ATC) để đo chính xác ở nhiệt độ môi trường tiêu chuẩn.
Màn hình ống nhòm đo độ mặn của Redsea
- Thang đo PPT trên khúc xạ kế nước biển của Biển Đỏ được tính toán bằng thuật toán dành cho nước biển và do đó sẽ cho kết quả về Độ mặn tuyệt đối của nước biển.
- Thang đo PPT trên khúc xạ kế độ mặn thông thường được tính toán bằng thuật toán cho nước muối. Sử dụng khúc xạ kế nước muối cho nước biển sẽ có sai số khoảng 1,5ppt khi đọc độ mặn.
Màn hình khúc xạ kế của Redsea
Màn hình khúc xạ kế độ mặn thông thường.
Về độ mặn
- Độ mặn là một thuật ngữ chung mô tả nồng độ muối trong nước. Tuy nhiên, dung dịch của các loại muối khác nhau có chiết suất khác nhau.
- Nước muối là dung dịch Natri Clorua (muối ăn) có chứa 2 nguyên tố hóa học.
- Nước biển chứa khoảng 70 nguyên tố hóa học bao gồm Canxi, Magiê, Kali, v.v. ngoài Natri Clorua.
- Nước biển và nước muối có cùng độ mặn (tức là cùng trọng lượng muối/lít) có chỉ số khúc xạ khác nhau và sẽ cho kết quả đo độ mặn khác nhau nếu đo trên cùng một khúc xạ kế.
Khúc xạ & chỉ số khúc xạ
- Tất cả các vật liệu trong suốt như chất lỏng đều khúc xạ (làm biến dạng) ánh sáng.
- Tất cả các vật liệu trong suốt đều khúc xạ ánh sáng một cách khác nhau và có cái gọi là “chiết suất”, nghĩa là mức độ mà một vật liệu cụ thể làm biến dạng ánh sáng.
- Nồng độ khác nhau của cùng một chất lỏng có chiết suất khác nhau.
- Thang đo của khúc xạ kế được tính toán bằng cách sử dụng thuật toán toán học liên quan đến khúc xạ đo được với nồng độ của nó đối với một chất lỏng cụ thể..
Chỉ số khúc xạ và nhiệt độ
- Chỉ số khúc xạ của chất lỏng thay đổi theo nhiệt độ và do đó có tác dụng lớn trong việc đo độ mặn bằng khúc xạ kế.
- Thuật toán xác định thang đo PPT (và S.G.) cho khúc xạ kế được tính cho nhiệt độ cụ thể.
- Số đọc PPT từ khúc xạ kế không được hiệu chuẩn cho bể cá rạn san hô (tức là 25oC) cần được điều chỉnh theo bảng chuyển đổi để đưa ra PPT thực tế ở nhiệt độ bể cá. Đây thường là nguyên nhân dẫn đến việc giải thích sai các số đo của khúc xạ kế.
- Ví dụ, sử dụng khúc xạ kế nước biển được hiệu chuẩn ở 20oC sẽ cho kết quả PPT thấp hơn khoảng 1-1,5ppt so với độ mặn tuyệt đối của cùng một mẫu nước ở nhiệt độ bể cá bình thường là 25oC.
Do đó, Khúc xạ kế nước biển của Redsea được hiệu chuẩn ở 25°C/77 0F đọc trực tiếp độ mặn tuyệt đối của nước biển mà không cần hệ số bù nhiệt độ)
ATC – Tự động bù nhiệt độ
- Nhiệt độ có lẽ là nguyên nhân lớn nhất gây ra sai số khi đo khúc xạ kế. Việc hiệu chuẩn và kiểm tra mẫu nước phải được thực hiện sau khi khúc xạ kế và mẫu nước đã cân bằng ở nhiệt độ chính xác.
- Tự động bù nhiệt độ (ATC) bù cho một vài độ chênh lệch giữa nhiệt độ môi trường và nhiệt độ hiệu chỉnh của khúc xạ kế. Sự thay đổi nhiệt độ lớn hơn sẽ gây ra sai số khoảng 1,0ppt khi đọc độ mặn.
- ATC không điều chỉnh chỉ số PPT của khúc xạ kế theo nhiệt độ của bể cá!